Danh tướng Nguyễn Phạm Tuân là ai?
Theo các tư liệu, Nguyễn Phạm Tuân (1842-1887) sinh ra ở làng Kiên Bính, tổng Võ Xá, phủ Quảng Ninh (nay là TP Đồng Hới) trong một gia đình nho học, nhiều đời cha con cùng thi đỗ đồng khoa, nhiều đời là công thần nhà Lê.
Ông đỗ cử nhân năm 1873; làm tri phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1883, khi được tin triều đình Huế đầu hàng thực dân Pháp, Nguyễn Phạm Tuân đã treo ấn từ quan.
Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông đã cùng với các tầng lớp sĩ phu yêu nước đứng ra chiêu mộ nghĩa quân, tập hợp binh lính tìm gặp vua Hàm Nghi xin đi theo đánh Pháp; được nhà vua phong chức Tán tương quân vụ quân thứ Quảng Bình.
Năm 1886, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn sang Trung Quốc cầu viện, đã trao toàn quyền quân đội và nội chính cho Nguyễn Phạm Tuân với chức Thượng tướng cùng Đề đốc Lê Trực và hai con trai của Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chống Pháp. Ông lập căn cứ ở vùng Tuyên Hóa, nghĩa quân của ông chiến đấu rất dũng cảm và đã lập được nhiều chiến công, có lần đã đột nhập thành Đồng Hới giết Bố chánh Nguyễn Đình Dương.
Đầu năm 1887, quân Pháp do tên đại úy Mouteaux cầm đầu tổ chức hai đội biệt kích đánh vào căn cứ Yên Lương. Ông chống cự lại rất quyết liệt nhưng bị trúng đạn ở ngực, rồi bị giặc bắt giải về đồn Minh Cầm. Giặc tìm mọi cách mua chuộc để tìm chỗ ở của vua Hàm Nghi, nhưng trước sau ông không chịu khai và bị nhục hình. Sau đó, ông dũng cảm tự vẫn, khiến tướng Pháp giận giữ sai lính chặt đầu, quẳng xác xuống sông Gianh, cấm người dân an táng.
Tuy nhiên, lãnh binh Cần Vương đã vớt tìm thi thể danh tướng (không ra đầu), lén đưa di chôn cất trên núi Yên Phong.
Không chỉ giỏi cầm binh đánh giặc, Nguyễn Phạm Tuân còn được biết đến là nhà thơ yêu nước và để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm như: "Đề miếu Nguyễn Biểu"; "Câu đối làm khi bị bắt"; "Bị đãi thời tác"; "Đề nghĩa Vương miếu"....
Danh tướng Nguyễn Phạm Tuân được đặt tên cho đường phố tại nhiều nơi, như: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng và Đồng Hới (Quảng Bình)...