Tôi đang ở cơ quan thì có một người đàn bà trạc 40 tuổi sấn vào, không nói không rằng ôm vai tôi rồi bật khóc nức nở. Tôi thất thần, không biết chuyện gì. Lúc sau chị ta mới nói trong tiếng nấc: “Anh quên em rồi sao? Em là con Sang, con chú Ba Tre ở Tân Châu, Hồng Ngự nè...”.
Tôi kêu “trời!”. Rồi ký ức được khơi dòng. Sang kể đến đâu tôi rơm rớm nước mắt tới đó. Số là cách đây hơn 40 năm, lúc đó chiến tranh loạn lạc và cũng vì nghèo nữa, chú thím Ba Tre đã bồng mấy đứa con xuống chiếc ghe cui, khoác đời thương hồ, xuôi về miệt Hậu Giang làm ăn. Giống như có duyên, ba má tôi thấy chiếc ghe với con cái nheo nhóc mà đời sống khổ sở nữa cứ neo đậu ở bến sông nhà mình đã mấy ngày nên kêu lên nhà hỏi cớ sự rồi cho ở, cho ăn, sau đó còn đi “vần” công gặt cho làm..
Ảnh: TRẦN CHÍ KÔNG
Ba má tôi và chú thím Ba ăn ở với nhau rất hợp tánh ý, cứ anh chị, chú thím ngọt xớt như bà con cật ruột. Lúc rảnh rỗi, ba tôi đi gặt phụ chú Ba, má tôi đi mót mấy con cá ở cái đìa người ta tát xong để làm khô, làm mắm cho thím Ba. Lúc đó, vùng Bạc Liêu chiến tranh liên miên có lúc hai gia đình phải dắt díu nhau vào chùa Cái Giá để lánh nạn. Đám anh em tôi cùng với đám con chú Ba là con Xuyến, thằng Tâm, con Sang... có cả một thời tuổi thơ quấn quýt bên nhau.
Ở với chúng tôi được mấy năm, nghe tin quê nhà yên ắng thì chú thím Ba “hồi cố thổ”. Tuy vậy, năm nào chú thím Ba hoặc mấy đứa con cũng mang lụa Tân Châu về Bạc Liêu quê tôi để bán. Nhà tôi chính là trạm trung chuyển của họ. Còn ba má tôi thi thoảng nhớ chú thím Ba quá thì đổ đường mấy trăm cây số lên thăm.
Giờ đây, ba má tôi, chú thím Ba và thằng Tâm đã không còn. Công việc làm ăn của tụi nhỏ mỗi thời mỗi khác, không có điều kiện viếng thăm nhau. Nay con Sang về thăm, nhắc lại chuyện cũ, thử hỏi làm sao không ngậm ngùi cho được.
Nào phải có chú thím Ba Tre, mà từ rất xưa, có lẽ từ thời khẩn hoang, bà con miệt Tiền Giang (tính từ hữu ngạn sông Hậu trở lên Sài Gòn) đã có nếp làm ăn như thế. Ngay từ lúc Nguyễn Đình Chiểu làm thơ than:
“Bến Nghé, của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Tức là lúc giặc Pháp gây loạn đao binh ở miệt Tiền Giang thì người Tiền Giang đã bồng bế nhau chạy loạn về Hậu Giang (vùng tả ngạn sông Hậu đến Cà Mau) để làm ăn, tìm đất mới. Cứ thế, thế hệ này tiếp theo thế hệ trước, hễ có hoạn nạn, nghèo khó là họ về Hậu Giang nếu không là tìm đất mới thì cũng để đi buôn hay gặt mướn. Khi gió chướng sòng thổi, đất trời phóng khoáng, hương lúa mới nồng đượm dâng lên khắp đồng là nghe dưới bến sông, trong những đêm trăng bàng bạc, giọng ai hò trong vắt: “Bờ ghe sau chèo mau tôi đợi/ Khúc sông này bờ bụi khó qua” là người Hậu Giang biết rằng đã đến lúc bà con miệt Tiền Giang về gặt mướn. Họ về trên mỗi xuồng, ghe có dăm ba dân công, có ghe thì chở nguyên gia đình, trên ghe có cả heo, gà... và một ít trái cây miệt vườn để bán làm sở phí đi đường và cũng để biếu bà con miệt Hậu Giang.
Mỗi một chiếc ghe đều có một bến đậu là những gia đình quen biết truyền thống ở vùng Hậu Giang theo kiểu thế hệ này truyền cho thế hệ sau, giống như thời chú Ba Tre đến thời con Sang tá túc ở nhà tôi thuở trước. Hồi đó, đa số người Hậu Giang, đặc biệt là những làng xóm ở ven kinh rạch đều có mối quan hệ thân tình với người Tiền Giang theo kiểu như vậy. Cứ đến rồi thân quen, đi thì nhớ.
“Anh về Giồng Dứa qua chuông,
Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ em”.
KHI NGƯỜI TIỀN GIANG XUỐNG, người Hậu Giang có nếp ứng xử phóng khoáng hào hiệp như bà con ruột thịt. Tôi có người cô ruột, nhà ở xã Vĩnh Trạch, TP Bạc Liêu. Vào những năm 1970-1980, cô tôi có một căn nhà gỗ căm xe ba gian hai chái, ruộng có đến hơn 100 công, gần chục con trâu, hơn ngàn con vịt đẻ, mấy khẩu đìa, mỗi năm tát cả ngàn ký cá… Sau giải phóng năm 1975, có hai con liệt sĩ lại là cơ sở cách mạng trong kháng chiến nên dượng Tư tôi được phân công làm trưởng ban nhân dân ấp. Kể từ đó, nhà cô tôi biến thành công sở, hội họp liên miên, cán bộ từ trên huyện, xã xuống ăn dầm nằm dề, cán bộ ấp tề tựu, dân tình kéo đến, tới mùa gặt thì bà con Tiền Giang về đậu xuồng kín bến sông nhà cô tôi...
Hầu như một tháng 30 ngày thì cô tôi có khách đến 29 ngày, cứ ì ì xèo xèo quanh năm. Cái chuyện diễn ra bình thường là có khách thì phải ăn nhậu, cứ tới bữa là mấy chị cán bộ hay mấy cô gặt mướn vào lu xúc gạo nấu cơm, cán bộ nam hay mấy anh thanh niên Tiền Giang gặt mướn thì đi đổ nò bắt cá, tép. Nước kém không có cá thì lấy trứng vịt sẵn trong cần xé để làm thức ăn. Nhiều người dân trong ấp đến họp, chờ mua vải vóc trễ bữa cũng được mời ăn cơm, bất luận thân sơ quen lại cứ tự nhiên như người trong nhà. Một mâm cơm dọn ra dài dằng dặc, 30-40 thực khách.
Cứ 5-7 ngày là chở lúa đi chà, cô tôi mỗi năm làm 1.000-2.000 giạ lúa mà chẳng thấy đem bán. Vậy mà lạ, quanh năm suốt tháng không thấy gia chủ buông một tiếng than, cứ giống như chuyện tự nhiên phải vậy, là nếp sống của gia đình không thể thay đổi được. Ai hỏi thì dượng tôi bảo: “Quen rồi, nhà đông thì vui, lúa trong bồ, cá mắm có sẵn, có hao tốn gì đâu?”.
Ở miệt Hậu Giang này, không chỉ có cô dượng tôi mà nếp sống ấy đã thành phổ biến.
Đến ở với nhau lâu thì thành bằng hữu, láng giềng theo câu nói cửa miệng “bà con xa không bằng láng giềng gần”. Rất nhiều tay nông dân gọi nhau bằng ní. Đó là bạn cùng tuổi, kết giao. Đã kết nghĩa “ní nót” thì người ta lấy lễ anh em ruột đãi nhau. Con của ní này thì gọi vợ chồng ní kia là “từng bể, từng má”. Khi cưới vợ gả chồng cho chúng, từng bể, từng má được mời lên ngồi bàn giữa để cô dâu chú rể lạy tạ ơn cùng lúc với cha mẹ ruột. Nhà ní có đám cưới, đám giỗ ngày trước đã thấy vợ con ní lục đục kéo sang giúp tát đìa, chẻ củi, gánh nước... đến xong đám cưới mới về. Tương tự như thế, nhà láng giềng có đình đám hay làm nhà, cả xóm kéo đến từ hôm trước để che rạp, mượn bàn ghế, làm heo, hay đẽo kèo cột, lợp lá...
Người quê quan niệm rằng đến càng lâu, cả vợ lẫn chồng, thì tình cảm càng sâu nặng. Một điều quan trọng nữa là lưu dân khẩn hoang miệt Hậu Giang vốn có gốc rễ từ miệt Tiền Giang và mạn ngoài. Gặp người Tiền Giang là gặp đồng hương bản quán, gợi nhớ gốc rễ. Dễ cảm thông những cảnh đời cơ nhỡ tha phương cầu thực như mình thuở mới đến khẩn hoang, thế là mời gọi nhau về làng mình, nhà mình mà ở. Có khi chỉ một đêm đợi nước ở vàm sông, qua câu hò đối đáp giữa kẻ dưới sông, người trên bờ là có thể thành nghĩa vợ chồng, nên tình thủ túc. Điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử buộc người Hậu Giang phải sống như thế, riết rồi quen, trở thành lối sống của mỗi người, nếp sống của làng xóm.
Là dải đất Việt Nam được khai mở sau cùng nên con người Hậu Giang chân quê mà xưa người ta gọi là dân đồng bưng, bàn chân nạm phèn. Người Hậu Giang hồn nhiên như cây cỏ, ăn nói không có bài bản, văn chương. Thế nhưng, Hậu Giang có một thứ mà vàng bạc chưa chắc đã mua được, đó là tình người rộng mở hào hiệp. Tính cách đó đã được xây đắp qua nhiều thế hệ nên thấm sâu và bền vững vô cùng.