Được khởi động từ năm 2015, Dự án Phát triển HTX Việt Nam (VCED) được tài trợ bởi Chính phủ Canada với mục đích cải thiện sinh kế cho nam và nữ nông dân một cách công bằng và bền vững, thông qua phát triển các chuỗi giá trị nông nghiệp trong mô hình HTX kiểu mới. Sau 7 năm, dự án đã để lại một di sản đáng giá cho sự phát triển nền kinh tế hợp tác ở Việt Nam. Buổi trò chuyện với bà Gaby Breton – Đồng giám đốc dự án sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dự án này.
Nông dân HTX Thanh Bình chăm sóc vườn thanh long
PV: Cảm ơn bà đã tham gia buổi trò chuyện hôm nay. Trước hết, bà có thể chia sẻ một số kết quả nổi bật của dự án VCED sau khi kết thúc chặng đường 7 năm?
Bà Gaby Breton
Bà Gaby Breton: Kết quả nổi bật nhất là chúng tôi đã thúc đẩy sự phát triển của mô hình HTX kiểu mới quy mô lớn thông qua 5 đơn vị là HTX Bưởi da xanh Bến Tre, Nho Evergreen Ninh Thuận, Bò sữa Đơn Dương, Bò sữa Evergrowth và Thanh Bình.
Dự án đã hỗ trợ họ hoạt động đúng theo Luật HTX 2012, phù hợp các nguyên tắc quốc tế về HTX; cải thiện năng lực quản trị, kinh doanh, thương mại, nâng cấp cơ sở hạ tầng và xây dựng chuỗi giá trị khép kín để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm mà người nông dân làm ra. Đáng chú ý, một số HTX đã phát triển thương hiệu riêng cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Tất cả những điều này đã giúp cho người nông dân – thành viên HTX cải thiện sinh kế khi họ được hưởng lợi nhờ việc tham gia HTX và sử dụng dịch vụ của HTX.
Để đạt được những kết quả đó, dự án VCED đã có cách tiếp cận như thế nào?
Một trong những cách tiếp cận đó là phát triển chuỗi giá trị cho các HTX để họ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực quản trị và năng lực thương mại của HTX được chúng tôi đặc biệt chú trọng.
Ở cấp độ nông hộ, chúng tôi triển khai chương trình Lớp học nông dân, nơi cung cấp các lớp tập huấn cả về mặt lý thuyết và thực hành, chuyển giao kiến thức kỹ thuật, công nghệ cho người nông dân. Còn ở cấp độ quốc gia, chúng tôi đã tích cực đóng góp vào công tác phát triển chính sách của Chính phủ Việt Nam để góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các HTX.
Quá trình thực hiện dự án có gặp nhiều khó khăn, thách thức không?
Ngay từ khi bắt đầu, nhiệm vụ phát triển mô hình HTX quy mô lớn là một thử thách rất lớn đối với dự án bởi hợp mô hình này vẫn chưa phổ biển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi có nhiệm vụ phải hỗ trợ các HTX hoạt động theo đúng Luật HTX 2012, trong đó có một điểm khác biệt lớn so với trước đó, đó là bộ phận kinh doanh và quản trị của HTX được tách biệt hoàn toàn. Điều này cũng đặt ra nhiều thách thức khi chúng tôi phải phổ biến một cách hiệu quả một khái niệm, một cách vận hành mới về HTX mà theo đó, các thành viên hoàn toàn có quyền quyết định đối với các hoạt động của HTX chứ không phải ai khác. Làm sao để tăng năng lực quản trị, mở rộng kinh doanh cho HTX, nâng cao năng lực sản xuất cho người nông dân. Tất cả những điều này đều là những mục tiêu đầy thách thức. Nhưng chúng tôi đã vượt qua nhờ sự hỗ trợ tuyệt vời từ chính quyền trung ương, địa phương và sự nỗ lực của chính người nông dân.
Rời Việt Nam, bà sẽ vẫn tiếp tục đồng hành với phong trào HTX chứ?
Chắc chắn là như vậy rồi. Ngay sau dự án VCED, điểm dừng chân tiếp theo của tôi là ở châu Phi. Đây sẽ là cơ hội để tôi chia sẻ và áp dụng những kinh nghiệm mà mình có được trong quá trình làm việc ở Việt Nam. Mọi người thường nói là dự án VCED giúp Việt Nam học hỏi và được chuyển giao công nghệ kỹ thuật, kiến thức từ Canada.
Nhưng ở chiều ngược lại, chúng tôi đã học được rất nhiều từ Việt Nam. Việt Nam là một ví dụ tuyệt vời về cách thức phát triển nền kinh tế, về tầm nhìn vĩ mô của chính phủ, về việc lên kế hoạch dài hạn và huy động toàn xã hội thực hiện những kế hoạch đó. Đất nước này có một tiềm năng rất lớn trong việc phát triển nền kinh tế hợp tác, HTX ở nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác nhau.
Vì vậy nên đối với tôi, Việt Nam có thể được sử dụng như một bài học kinh nghiệm cho rất nhiều quốc gia về việc hỗ trợ phát triển HTX. Chắc chắn là tôi sẽ quay trở lại đây cùng với nhiều phái đoàn khác nhau, để bài học kinh nghiệm từ Việt Nam được lan tỏa rộng rãi.