Lá, trái, nhánh sầu đâu - Ảnh: L.K.PHỤNG
Tất cả những gì có trên thân cây sầu đâu đều là nguồn dược liệu quý.
Cây sầu đâu còn được gọi là cây xoan, tên khoa học là Azadirachta indica A.Juss, hoặc Melia azedarach Linn, thuộc họ xoan Meliaceae. Cây được phân bố nhiều ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Indonesia, Việt Nam. Tại Việt Nam, cây mọc hoang nhiều nhất ở An Giang, Kiên Giang, Ninh Thuận và rải rác ở đồng bằng sông Cửu Long. Riêng TP.HCM tôi thấy cây mọc nhiều ở khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng.
Cây có lá rất xanh, mọc đối xứng, mép lá có răng cưa và đặc biệt là hai đáy của phiến lá không đều. Lá có vị rất đắng nhưng có hậu ngọt, tính mát. Xuất xứ từ Ấn Độ với tên gọi “neem”, sầu đâu là loài cây thân mộc có tuổi thọ khoảng 200 năm. Tất cả những gì có trên thân cây này đều là nguồn dược liệu quý, cũng như lợi ích của cây về lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Lá, hoa, nhựa, vỏ cây... có thể khử trừ khoảng 200 loại côn trùng có hại trong sản xuất nông nghiệp... Và hơn hết là chức năng thanh lọc không khí, làm tăng độ ẩm ổn định môi trường.
Mới đây nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu hóa sinh ứng dụng TP.HCM, do GS.TS Trần Kim Quy chủ trì, vừa công bố việc điều chế thành công ba nhóm thuốc bảo vệ thực vật mới được trích ly từ hạt và lá cây sầu đâu với tên gọi limonoid. Chất này có khả năng diệt mọt trong ngũ cốc và ức chế 100% sự nảy mầm của hạch nấm gây hại hoa màu. Đây là công trình điều chế thuốc trừ sâu có nguồn gốc thực vật, không gây ô nhiễm môi trường và không gây hại cho con người.
Trị nhiều bệnh
Riêng về lĩnh vực y học, tác dụng kỳ diệu của lá sầu đâu đã được người Ấn Độ ứng dụng từ xa xưa để làm thuốc hạ đường huyết, chống viêm, chống ung thư, kháng khuẩn, kháng nấm, chữa sốt rét. Ngoài ra nó còn có tác dụng chống oxy hóa tế bào và kháng các tác nhân gây đột biến gen hoặc ung thư...
Đối với bệnh đái tháo đường, mỗi ngày có thể dùng 5-10 lá, tươi hoặc phơi trong mát cho hơi héo rồi đun sôi lấy nước uống mỗi ngày, nước thuốc có vị rất đắng nhưng hậu ngọt, cũng không khó uống.
Các nước Ấn Độ, Mỹ, Hà Lan, Nhật... đã điều chế sản xuất từ lá sầu đâu thành các dạng thuốc uống như thuốc viên, chữa loét bao tử, bệnh đường ruột, sán lãi, dạng trà thuốc, dạng kem và các mỹ phẩm thoa da chữa ghẻ, mụn nhọt, lang ben, hắc lào, xà bông tắm sát khuẩn ngoài da, hoặc cao dán trị các vết thương làm độc, ung mủ, các vết loét của phong hủi. Nước sắc của cây còn dùng để chữa viêm nha chu, viêm nướu, sâu răng, chữa viêm cơ, viêm khớp. Dùng ngoài đắp lên các ápxe, bướu ác tính, trĩ hoặc các vết thương do rắn, rết cắn.
Ngành công nghiệp dược của nhiều nước đã trích ly hoạt chất của cành, lá sầu đâu và chế thành thuốc viên trị bệnh đái tháo đường do thiếu insulin, làm thuốc lọc máu, trị bệnh cao huyết áp và rối loạn nhịp tim, làm giảm mỡ và cholesterol trong máu.
Cây sầu đâu đang được trồng và khai thác đại trà tại các nông trường neem tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và Trung tâm Nghiên cứu nông dược TP.HCM (sản xuất với quy mô 50 tấn/năm).
Sầu đâu: Nguồn dược liệu quý
Xuất xứ từ Ấn Độ với tên gọi "neem", sầu đâu (còn gọi sầu đông) chính là món quà tuyệt vời mà thượng đế ban tặng cho những vùng khắc nghiệt về khí hậu vì tất cả những gì có trên cây đều là nguồn dược liệu quý.
Lá, hoa, nhựa, vỏ... cây sầu đâu có thể khử trừ khoảng 200 loại côn trùng có hại trong sản xuất nông nghiệp, và hơn hết là chức năng thanh lọc không khí, làm tăng độ ẩm ổn định môi trường.
Mới đây, nhóm nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu hoá sinh ứng dụng TP.HCM do GS-TS. Trần Kim Quy chủ trì vừa công bố việc điều chế thành công ba nhóm thuốc bảo vệ thực vật được trích ly từ hạt và lá cây sầu đâu hay neem với tên gọi limonoid, chất này có khả năng diệt mọt trong ngũ cốc và ức chế 100% sự nảy mầm của hạch nấm gây hại hoa màu. Có nguồn gốc thực vật, thuốc không gây ô nhiễm môi trường và không gây hại cho con người.
Lá sầu đâu có vị rất đắng, nhưng hậu ngọt, tính mát. Ảnh: CTV
Riêng về lĩnh vực y học, tác dụng kỳ diệu của lá sầu đâu đã được người Ấn Độ ứng dụng từ xa xưa để làm thuốc hạ đường huyết, chống viêm, chống ung thư, kháng khuẩn, kháng nấm, chữa sốt rét, ngoài ra nó còn có tác dụng chống oxyt hoá tế bào và kháng các tác nhân gây đột biến gene hoặc ung thư.
Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc viện Nghiên cứu sức khoẻ quốc gia Mỹ được công bố trên các tạp chí trong những năm gần đây cho thấy lá cây neem còn có tác dụng kháng HIV/AIDS, ngăn chận sự phát triển của tế bào ung thư, bảo vệ tim mạch, tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể. Đặc biệt đối với bệnh tiểu đường, mỗi ngày có thể dùng 5-10 lá, tươi hoặc phơi trong mát cho hơi héo rồi đun sôi lấy nước uống mỗi ngày (nước thuốc có vị rất đắng nhưng hậu ngọt, cũng không khó uống).
Hiện nay các nước Ấn Độ, Mỹ, Hà Lan, Nhật… đã điều chế sản xuất từ lá neem các dạng thuốc uống như thuốc viên chữa loét bao tử, bệnh đường ruột, sên lãi, dạng trà thuốc, dạng kem, sữa rửa mặt và các mỹ phẩm thoa da chữa ghẻ, mụn nhọt, lang ben, hắc lào, xà bông tắm sát khuẩn ngoài da, trị gàu, hoặc cao dán trị các vết thương làm độc, ung mủ, các vết loét của phong hủi.
Gỏi sầu đâu là món ăn đặc sản ở nhiều nơi. Ảnh: CTV
Nước sắc của cây còn dùng để chữa viêm nha chu, viêm nướu, sâu răng, chữa viêm cơ, viêm khớp. Dùng ngoài chỉ cần lấy lá tươi giã nhỏ rồi chà xát hoặc đắp lên các ápxe, bướu ác tính, trĩ hoặc các vết thương do rắn, rết cắn.
Ngành công nghiệp dược của nhiều nước đã thu nhiều lợi nhuận nhờ ly trích hoạt chất của cành và lá neem và chế thành thuốc viên bán ra thị trường trị bệnh tiểu đường do thiếu insulin, làm thuốc lọc máu, trị bệnh cao huyết áp và rối loạn nhịp tim, làm giảm mỡ và cholesterol trong máu.
Hiện nay cây đang được trồng và khai thác đại trà tại nông trường Neem, huyện Ninh Sơn - tỉnh Bình Thuận; Tháp Chàm, Phan Rang - tỉnh Ninh Thuận; và trung tâm Nghiên cứu nông dược TP.HCM (sản xuất với quy mô 50 tấn/năm).
Riêng ở đô thị Nam Sài Gòn, cây mọc rất nhiều và tươi tốt quanh năm, nếu được chú ý trồng và chăm sóc, cây sẽ góp phần mang lại bóng mát và thanh lọc môi trường, đồng thời giúp người dân biết nhận diện và sử dụng một cây thuốc quý.
Sầu đâu có tên khoa học là Azadirachta indica Ajuss, hoặc Melia azedarach Linn, thuộc họ Meliaceae. Cây được phân bố nhiều ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri-Lanca, Indonesia... Ở Việt Nam cây mọc hoang nhiều nhất ở An Giang, Kiên Giang, Ninh Thuận và rải rác khắp đồng bằng sông Cửu Long.
Là loài thân mộc có tuổi thọ khoảng 200 năm, cây có lá rất xanh, mọc đối xứng, mép lá có răng cưa và đặc biệt là hai đáy của phiến lá không đều. Lá có vị rất đắng, nhưng hậu ngọt, tính mát.